Hiện nay thế giới đang đứng trước nhiều sự việc và hiện tượng có tác động toàn cầu. Chúng cũng là những thử thách lớn đối với Ðạo Phật và Phật tử chúng ta.
                    
                        
     Về mặt tiêu cực, nạn nhân 
mãn và suy dinh dưỡng tại nhiều nơi trên thế giới, bạo lực tàn phá mạnh mẽ các 
tài nguyên thiên nhiên - có khi đến độ không thể phục hồi -, cường độ bão lụt 
gia tăng và quả đất bị hâm nóng dần là một vài ví dụ điển hình. Bên cạnh đó, 
hiện tượng suy tôn vật chất và các tiện nghi máy móc đang lan tràn. Sự xói mòn 
lòng tin đối với những giá trị truyền thống ngày càng mạnh mẽ. Ðất nước Việt Nam 
cũng đang trực diện với những vấn đề tương tự. Phật tử chúng ta không thể không 
phân vân tự hỏi : "Mình đã đóng góp đủ bổn phận vì thế hệ mai sau chưa ?". "Mình 
đã áp dụng đúng lời Phật dạy trong sự xây dựng một nếp sống quân bình giữa vật 
chất và tinh thần trong hoàn cảnh mà mình đang có mặt ?". 
     Ngược lại, thế giới cũng 
đang đứng trước nhiều thuận lợi mới. Sự chấm dứt chiến tranh lạnh, nổ lực hợp 
tác giữa những nước đã từng thù nghịch với nhau, sự lớn mạnh của phong trào giải 
phóng phụ nữ, sự bành trướng bảo vệ môi trường và sự truy tầm một nội dung mới 
cho vấn đề "phát triển lâu bền", đang làm tiền đề cho những thao thức và cố gắng 
mới trong sự xây dựng "một thế giới chung" tốt đẹp hơn. Người Phật tử có thể 
đóng góp được gì nhằm hổ trợ và triển khai những việc tích cực ấy 
? 
     Câu hỏi vừa đặt ra cho người 
Phật tử có lẽ không thừa. Bởi vì Phật tử nào cũng biết câu "Phật pháp không lìa 
thế gian pháp" và ý thức rằng giáo lý của Ðức Phật không là những gì trừu tượng 
đứng ra ngoài cuộc đời. Do đó, sự tìm hiểu hoàn cảnh và những sự việc hiện thực, 
cũng như những xu thế phát triển của chúng, với chủ đích làm sống động mối tương 
quan giữa Ðạo Phật và đời sống thực tại, là một tất yếu. Qua đó, người Phật tử 
vừa thực hiện được 1 trong 4 lời nguyện lớn : "Pháp môn vô lượng thệ nguyện 
học", vừa nhận thức rõ hơn thế nào là những hành động hợp với "khế lý" và "khế 
cơ" trong sự xây dựng một nếp sống vì sự giải thoát của mình và vì sự an lành 
của chúng sinh. 
      Sau đây xin gợi ý về "Ðạo 
Phật đối với vấn đề phát triển lâu bền và bảo vệ môi trường", nhằm góp phần vào 
cuộc thảo luận chung quanh chủ đề "Ðạo Phật và Thời đại". 
     "Phát triển" là vấn đề trung 
tâm của mỗi quốc gia. Xưa nay chưa có một nội dung thống nhất về "phát triển". 
Bởi vì quốc gia nào cũng có suy nghĩ và ưu tiên riêng. Hơn nữa, khi hoàn cảnh 
chuyển biến thì quan niệm về "phát triển" cũng phải thay đổi để hợp với những 
yêu cầu mới. "Phát triển" thường được hiểu qua nghĩa hẹp là "phát triển kinh 
tế", là "xây dựng và phát huy mọi tiềm năng sản xuất toàn quốc, nhằm phục vụ dân 
chúng với hàng hóa và dịch vụ". 
      Vào những thập niên 50, 60 
phát triển được quan niệm là "sự tăng trưởng hàng năm về thu nhập quốc dân". Sau 
đó, nội dung "giảm nghèo, giảm chênh lệch và giảm nạn thất nghiệp trong quá 
trình phát triển kinh tế" đã được đề cao. Phát triển cũng được hiểu như "sự thay 
đổi của toàn bộ hệ thống xã hội, nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản của khối lớn 
quần chúng đang cảm thấy thiếu thốn về vật chất và tinh thần" (1). Nói chung, dầu với nội dung nào đi nữa, vai trò sản 
xuất hàng hóa, phân phối và tiêu thụ hàng hóa, vẫn luôn luôn giữ vị trí ưu tiên 
hàng đầu trong sự phát triển. Biểu tượng của sự phát triển từ trước đến nay là 
số lượng ngày càng tăng của sắt thép được chế tạo, của sự sản xuất cùng tiêu thụ 
năng lượng và hàng hóa, là tốc độ bành trướng đô thị, là tốc độ di chuyển và 
thông tin. 
      Con người đã không ngừng thi 
đua nhau trong việc sản xuất. Chỉ tiêu "ngày càng nhanh, ngày càng nhiều và ngày 
càng mới" đã được thần thánh hóa. Nhu cầu về nguyên liệu và chất đốt tăng vòn 
vọt. Thiên nhiên đã trở thành nguồn vật liệu không ngừng bị khai thác và khống 
chế. Thiên nhiên cũng là nơi tiếp nhận miễn phí mọi loại rác dơ bẩn và chất thải 
độc hại. 
     Ðể đạt chỉ tiêu phát triển, 
bao nhiêu người đã không quan tâm đến hệ quả của sự khai thác quá độ và sự tiêu 
diệt các sinh vật "không ích lợi". Ðối với họ, sự ô nhiễm và hủy hoại môi trường 
chỉ là những sự kiện nhỏ, không phải là đề tài để thảo luận. Ðiều này đã phản 
ánh qua những cố gắng liên tục suốt hai thế kỷ qua, nhằm phát triển ngày càng 
tinh vi những phương pháp và công cụ kỹ thuật phục vụ cho sản xuất. Ngược lại 
những gì cần thiết và hữu hiệu cho việc ngăn chận sự phá hoại môi trường và sự 
giảm thiểu phế liệu, rác và chất độc... chỉ mới được quan tâm từ hai thập niên. 
Chúng là những thứ gây thêm phí tổn sản xuất, nên bị loại ra ngoài các bài tính 
làm sao đạt được lợi nhuận tối đa, làm sao mau được giàu có ! 
     Họ không những không chú ý 
đến sự ô nhiễm môi trường và sự sát hại sinh thể khác mà còn quên cả bản thân. 
Họ không còn ý thức rằng mình đang sống hối hả và căng thẳng, đang bị cuốn hút 
vào guồng máy cạnh tranh "thúc cùi chỏ" vì lợi nhuận. Họ không còn hay biết rằng 
những giá trị tâm linh đang bị xói mòn, đang bị hào quang của phát triển và tiện 
nghi vật chất che lấp. Hiện tượng lẫn lộn giữa hạnh phúc với sự đua đòi nâng cao 
mức tiêu thụ, giữa ý nghĩa cuộc sống với của cải ngày càng chồng chất, đã trở 
nên phổ biến. 
     Ðối với Ðạo Phật, sự phát 
triển như vậy là sự phát triển bị "tham, sân, si" chi phối. Phật tử không thể 
thản nhiên chấp nhận nó. Huy chương nào cũng có hai mặt : mặt phải và mặt trái. 
Sự phát triển cũng vậy. Chúng ta không thể không quan tâm theo dõi, phát hiện và 
mổ xẻ mặt trái, mặt tiêu cực của nó, để nhận thức tường tận hơn đâu là ranh giới 
mà con người phải dừng lại và phải chuyển hướng, nếu không tất phải rước đại 
họa. Hơn nữa, qua đó chúng ta có thể duyệt lại tinh thần và nguyên tắc hành động 
nào mà Ðức Phật dạy có thể đóng góp tốt cho sự xóa bỏ tiêu cực và giảm thiểu 
tham sân si. 
     Ðứng giữa lòng thủ đô phồn 
vinh của một nước phát triển, con người khó mà không tin cậy con đường phát 
triển từ 200 năm qua. Những thành tựu của nó thật huy hoàng. Ðể minh họa điều 
ấy, xin nêu ra đây một số thành tựu của 3 lãnh vực điển hình : nông nghiệp, y 
học và công nghiệp. 
     Thứ nhất, trên lãnh vực nông 
nghiệp, mặc dù đó đây vẫn còn nạn đói và suy dinh dưỡng, nông nhiệp, nói chung, 
đã nuôi nổi số nhân khẩu tăng lên gấp 5 lần trong vòng 2 thế kỷ qua. Từ năm 1850 
đến nay, dân số thế giới, chủ yếu tại những nước đang phát triển, từ 1,15 tỷ 
tăng lên 5,7 tỷ (2)(3). Tại Ðức, năm 1950, mỗi nông 
dân có thể nuôi được 8 người và năm 1989 có thể nuôi đến 59 người. Nhóm nghiên 
cứu nông nghiệp quốc tế CGIAR (Consultative Group on International Agricultural 
Research) vừa lai tạo được giống lúa mới có năng suất cao hơn 25% so với các 
giống hiện tại, mở ra một viễn tượng lạc quan trong việc đáp ứng nhu cầu thực 
phẩm trên thế giới. 
     Thứ hai, trên lãnh vực y 
học, nhờ nhiều cải thiện tốt về phương pháp trị liệu và vệ sinh, nên các bệnh 
tật khủng khiếp, giết người hàng loạt, như dịch tả, dịch hạch, đậu mùa, ho lao 
v.v... đã bị đẩy lùi (2). Tỷ lệ tử vong của trẻ con 
sơ sinh đã giảm từ 30% vào năm 1870, xuống còn 6% vào năm 1960 và hiện nay, tại 
nhiều nơi, còn thấp hơn 4%. Thọ mạng con người được kéo dài hơn 11% trong vòng 
thời gian ấy. Tại Âu châu, tuổi thọ trung bình năm 1870 là 38, đã tăng lên 70 
vào năm 1965 và hiện nay đã vượt cao hơn. 
     Thứ ba, sự công nghiệp hóa 
đã trở thành đầu tàu của phát triển mà quốc gia nào cũng muốn đạt đến. Công 
nghiệp vừa tạo ra công ăn việc làm và những khả năng kiếm nhiều tiền, vừa cung 
cấp vô số mặt hàng và tiện nghi vật chất. Ti vi, tủ lạnh, xe hơi, máy điều hòa 
nhiệt độ, máy nói, đó là vài ví dụ điển hình. Bên cạnh đó, mạng lưới đường xá 
giao thông hiện đại với tốc độ cao, cũng thúc đẩy sự phát triển kinh tế và giúp 
con người đến tận mọi địa điểm trên quả đất. 
     Công nghiệp và các hệ thống 
giao thông đã làm bàn đạp cho sự đô thị hóa. Năm 1800 thế giới chỉ có 21 thành 
phố lớn và không thành phố nào có được 1 triệu dân. 100 năm sau, con số này đã 
nhân lên gấp 15 lần. Lúc ấy đã có 22 thành phố tập trung hàng triệu người (4). Năm 1950 thế giới đã có 964 chùm đô thị với hơn 422 
triệu người ở; năm 1980 tăng lên 1886 chùm đô thị, với hơn 1,1 tỷ dân cư (5). Thật là kỳ diệu, với một mặt bằng hạn hẹp, đô thị luôn 
luôn dung nạp được số dân cư khổng lồ ngày càng tăng lên. Những cao ốc của chúng 
ngày càng trở nên đồ sộ, ngất ngưởng chọc trời. Công nghiệp và đô thị không 
ngừng phát triển, không ngừng chuyển đổi bộ mặt của quả đất và để lại dấu ấn sâu 
sắc của nó trên cảnh quan, trong đời sống kinh tế, xã hội và văn hóa của một 
nước. 
     Ba ví dụ nêu trên đã tô son 
đánh phấn cho sự phát triển vừa qua; đã gieo vào lòng bao nhiêu người niềm tin 
sâu sắc về sức mạnh vạn năng của sự phát triển. Nhưng đó chỉ là mặt tích cực. 
Nếu nghiêm túc quan sát kỹ, chúng ta phát hiện ngay mặt trái với nhiều tì vết 
giữa lớp sơn bóng lộn của nó. Những tì vết này chính là những hiểm họa không 
lường được. 
     Nông nghiệp và y dược, tuy 
đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự nuôi sống và bảo dưỡng sức khoẻ con 
người, song chúng cũng hổ trợ cho sự gia tăng dân số. Chính đà gia tăng dân số 
một cách nhảy vọt không ngừng đã mang đến cho nhân loại những khó khăn lớn 
lao. 
     Chúng ta thử theo dõi vấn đề 
này. Dân số thế giới mặc dầu đang đi vào chiều hướng ổn định, song sự tăng nhảy 
vọt từ 2 thế kỷ qua, đã tạo ra những vấn đề khó giải quyết. Theo dương lịch, dân 
số thế giới vào năm thứ nhất lên đến 250 triệu người; năm 1650, 550 triệu người; 
năm 1850, 1,15 tỷ; năm 1940, 2,25 tỷ; và năm 1980, 4,34 tỷ người. Theo đó, lần 
nhân đôi dân số thế giới thứ nhất kéo dài 1650 năm; lần nhân đôi thứ hai hạ 
xuống còn 200 năm; lần thứ ba, 90 năm và lần thứ tư chỉ còn 40 năm (4). 
    Tại Việt Nam, nhịp độ tăng 
dân số còn ngặt hơn. Theo thống kê từ đầu thế kỷ 19, kể từ năm 1802, lần nhân 
đôi thứ nhất kéo dài hơn 80 năm, lần thứ hai còn 40 năm, lần thứ ba, 34 năm và 
lần thứ tư chỉ còn 24 năm (6). Eigen, nhà hóa học vật 
lý được giải Nobel, đã gọi nhịp độ nhân đôi dân số trong vòng tuổi thọ một đời 
người là nhịp độ "phù thủy một nhân một" trong định luật phát triển, tiềm tàng 
bao hiểm họa khó lường (7). 
    Thực vậy, nếu chúng ta áp 
dụng "lý duyên khởi" và sự suy nghĩ (Khi cái này có thì cái kia có... Do cái kia 
diệt, nên cái này cũng diệt), chúng ta thấy được dễ dàng một chuỗi hệ quả và 
những nguy hiểm do sự gia tăng dân số nhảy vọt sinh ra. Ai cũng biết, khi dân số 
tăng lên thì những nhu cầu về lương thực, nơi trú ngụ, trường học, bệnh xá... 
tương ứng tăng lên. Những đòi hỏi về diện tích sản xuất lương thực, về mặt bằng 
xây dựng và chế biến, về giao thông và tiếp liệu v.v... cũng phải tăng theo. Ðể 
thỏa mãn những nhu cầu và đòi hỏi này, con người đã tăng cường sự tiến công vào 
môi trường và thiên nhiên một cách dữ dội và sâu rộng. Nhưng, quả đất chúng ta 
chịu giới hạn về diện tích và sức tải. Nó không thể đáp ứng tất cả mọi đòi hỏi 
và sự bành trướng vô tận của con người. Con người càng tăng sức ép vào quả đất 
thì càng tạo ra nhiều mâu thuẫn và hậu quả tiêu cực mà chính con người phải gánh 
chịu. Sau đây là vài ví dụ : 
     1. Về mặt nông nghiệp, một 
khi dân số tăng thì diện tích sản xuất lương thực cũng phải được mở rộng. Từ 
1980 đến 1995, tổng diện tích canh tác thế giới đã tăng 6,3%, từ 1,26 lên 1,34 
tỷ ha. Song trên thực tế, diện tích canh tác cho mỗi đầu người, trong vòng thời 
gian ấy, đã hẹp lại 24%, từ 0,29 ha giảm xuống còn 0,22 ha (8). Hoàn cảnh của Việt Nam cũng tương tự. Diện tích cung 
cấp lương thực cho mỗi đầu người ngày càng thu hẹp theo đà dân số tăng, từ 0,2 
ha năm 1940, đã giảm xuống 0,15 ha năm 1970 và chỉ còn 0,12 ha năm 1980 (9). 
     2. Thông thường, khi cần mở 
rộng diện tích canh tác, con người đã đốn rừng. Tại Việt Nam, hàng năm rừng bị 
mất khoảng 200.000 ha, trong đó khoảng 50.000 ha là do khai hoang để trồng trọt 
(10). Rừng càng thu hẹp chừng nào thì diện tích còn 
lại càng bị đốn nhanh chừng nấy, để kịp tiếp tế củi, gỗ và nguyên liệu sản xuất 
giấy và văn hóa phẩm cho nhu cầu tăng lên theo sự phát triển dân số. Và hậu quả 
gì sẽ xảy ra khi rừng bị hủy diệt ? 
     3. Rừng mất thì đất không 
được che chở nữa. Mưa gió tấn công trực tiếp vào mặt đất, rửa trôi, xói mòn lớp 
phân màu mỡ, khiến cho đất ngày càng thoái hóa và cuối cùng biến thành sa mạc. 
Hàng năm, các nước đang phát triển bị mất đi 6 triệu ha đất nông nghiệp do sa 
mạc hóa (11). Theo ước tính của Ngân hàng thế giới, 
2/5 diện tích canh tác tại Phi châu, 1/3 tại Á châu và 1/5 tại châu Mỹ la tinh 
bị đe dọa trở thành sa mạc do hậu quả đốn rừng, hoặc do chăn nuôi, do dẫn thủy 
sai lầm và khí hậu thay đổi. 
     Tại Việt Nam, hơn 1/4 (12) - tính theo một tài liệu khác : 1/3 (13) - diện tích đất đai toàn quốc đã bị thoái hóa, mất hết 
sức sản xuất. Ðồi trọc, bãi hoang đang tiếp tục mở rộng, xóa bỏ địa bàn sinh 
sống ngày càng cần thiết cho dân số ngày càng đông đảo ! 
     4. Khi rừng mất, lớp thảm 
mục điều hòa dòng chảy cũng bị tiêu diệt theo. Lũ lụt và cường độ phá hoại của 
nó cũng tăng lên. Qua kết quả nghiên cứu tại Ấn độ, sự phá rừng đã khiến cho 
diện tích bị ngập lụt mở rộng thêm 40 triệu ha trong vòng 25 năm (1960-1984). 
Mùa màng và đời sống của hàng triệu người bị đe dọa trầm trọng hơn (14). 
     5. Sự hủy diệt rừng cũng kéo 
theo sự hủy diệt trú quán của động và thực vật hoang dã. 50-90% các loài này 
đang tập trung tại rừng mưa nhiệt đới và bán nhiệt đới. Hàng ngàn loài trong số 
1,4 triệu đã được kiểm tra, là dược liệu quí hiếm hoặc là nguồn "gen" cần thiết 
cho sự lai tạo các giống cây trồng và vật nuôi phục vụ sự sống con người. Theo 
tốc độ phá rừng hiện nay, với 11 triệu ha mỗi năm, đến năm 2040 thế giới sẽ mất 
đi từ 17% đến 35% loài trong số 10 triệu. Vào năm 2040, hàng ngày sẽ có từ 20-70 
loài bị tuyệt chủng (15). 
     6. Cây xanh, qua hiện tượng 
quang hợp, hấp thụ hàng ngày khí carbonic CO2. Khí CO2 là một trong những loại 
khí gây ra hiệu ứng nhà kính, hâm quả đất nóng dần, làm tan các khối băng tại 
Bắc cực, khiến mực nước biển dâng cao và tràn ngập, phá hủy đồng bằng thấp ven 
biển. Sự phá rừng đã làm mất đi một nhân tố rất quan trọng có khả năng hấp thụ 
và tích lũy lâu dài một số lượng khổng lồ của khí CO2, và gián tiếp làm giảm bớt 
mực nước biển dâng lên. 
     Các nhà nông nghiệp hiện đại 
không cần phá rừng nữa. Ðể giải quyết nhu cầu lương thực, họ đã áp dụng các biện 
pháp thâm canh, như trồng cây thuần loại, cơ giới hóa, phun tưới, dẫn nước, bón 
phân, dùng thuốc diệt sâu rầy và cỏ dại, lai tạo giống mới v.v... Nhưng những gì 
đã xảy ra cho môi trường và con người với những phương pháp canh tác hiện đại ấy 
? Nó có đưa lại một chuỗi hệ quả tiêu cực có hại cho con người không? Ðôi ví dụ 
sau đây trả lời cho câu hỏi ấy. 
     1. Sự trồng cây thuần loại 
đã đẩy lùi hay tiêu diệt những loài "không hữu ích". Mặt khác nó đòi hỏi phải sử 
dụng thuốc diệt họa chống sâu rầy và nấm bệnh. Những thuốc này sát hại luôn 
những côn trùng và chim chóc hữu ích khác. Các cặn thuốc có chứa những chất độc 
như thủy ngân và arcenic, theo mưa thâm nhập và đầu độc ao hồ, suối sông và thủy 
sinh vật. Với diện tích rộng lớn của nó, nông nghiệp là nguyên nhân quan trọng 
làm nghèo sự đa dạng sinh học, đem lại sự mất cân bằng cho nhiều hệ sinh thái, 
và qua chuỗi thức ăn, làm hại cả sức khoẻ con người. Hiện tượng bị dị ứng và ngộ 
độc do thức ăn còn chứa thuốc diệt sâu rầy đã xảy ra tại nhiều nơi ở Việt 
Nam. 
     2. Sự cơ giới hóa, đặc biệt 
trên lãnh vực thủy lợi với các máy công cụ nặng dùng để đào xới, đã phá hủy trú 
quán và tiêu diệt các loài động và thực vật hoang dã. Hơn nữa, nó tạo ra hiện 
tượng xì phèn, hóa sình và hóa mặn, giết hại cỏ cây. Riêng năm 1986, sự hóa mặn 
đã làm tổn hại khắp thế giới khoảng 60 triệu ha đất nông nghiệp. Nước ngọt luôn 
luôn chứa một lượng muối nhỏ. Nồng độ muối này tăng dần sau mỗi lần tưới và một 
ngày nào đó hóa mặn đất đai. Sự hoang mạc hóa, sự hóa mặn, hóa sình cũng là 
những nguyên nhân quan trọng gây ra nạn đói và suy dinh dưỡng cho 800 triệu 
người trên quả đất hiện nay. Ngoài ra, sự dẫn nước vào ruộng cũng làm bành 
trướng các khuẩn gây bệnh đường ruột và sốt rét rừng. 
     3. Chất phosphat và nitrat 
của phân bón làm tăng độ phú dưỡng của thủy vực, kích thích sự phát triển nhanh 
của rong rêu. Rong rêu cướp mất dưỡng khí và giết hại tôm cá và thủy sinh vật 
khác tại ao hồ. Qua đó, khả năng làm sạch nước tự nhiên và sự sống của ao hồ 
cũng bị diệt theo. 
     Nói tóm lại, việc thâm canh 
để tăng sản lượng lương thực và sự đốn rừng nhằm thỏa mãn nhu cầu nhảy vọt về 
củi, gỗ, về diện tích trồng trọt và định cư, đều là những hoạt động chính đáng 
nhằm phục vụ cho cuộc mưu sinh. Trong rất nhiều trường hợp, hệ quả dị thời của 
những hoạt động chính đáng này, từ 10 hoặc 20 năm trước, lại trở thành sự tàn 
phá những điều kiện mưu sinh. Trước những bằng chứng nêu trên, người Phật tử 
không thể không suy nghĩ, thế nào là "chánh nghiệp" ?, thế nào là nông nghiệp 
trong sáng theo quan niệm "ngũ minh" ?. Phật tử phải hành động và kinh doanh ra 
sao để thiên nhiên không bị mang hại, tương tự như "ong hút mật mà không làm hại 
hoa", như Ðức Phật đã nhắm nhủ ? 
     Trong lãnh vực công nghiệp 
hóa thì thế nào ? Với những thành tựu huy hoàng của nó, nó có đạt được tiêu 
chuẩn "minh" theo quan niệm "công xảo minh" chăng ? Có lẽ là không ! Nền công 
nghiệp từ 2 thế kỷ nay cũng gây ra hàng ngàn hiện tượng tiêu cực cho môi trường 
và con người. Sự ô nhiểm không khí và nước, rác rến dơ bẩn, tiếng ồn ào nhức óc 
v.v... là những mối nguy hại thường trực và phổ biến. Ðất nước chúng ta đang đi 
trên đà công nghiệp hóa, không thể không đối diện với những tiêu cực này. Sau 
đây xin nêu vài ví dụ cụ thể (2) 
     1. Công nghiệp - và sự đô 
thị hóa - đã trực tiếp phá hủy thiên nhiên để lấy mặt bằng xây dựng và phát 
triển. Công nghiệp đã biến đổi cảnh quan và các hệ sinh thái một cách sâu rộng, 
đã làm đảo lộn những chu trình vật chất và dòng năng lượng trong sinh quyển, gây 
khó khăn cho quá trình phục hồi và thanh lọc tự nhiên. Về mặt khí hậu, trong 
vòng 40 năm qua, từ 1949 - 1989, mặt nước biển vùng nhiệt đới đã nóng hơn 0,5 độ 
C và ẩm hơn 16%. Mưa lục địa tăng 5% (riêng khu vực Sahel tại Phi châu thì ngược 
lại. Nơi đây, mưa giảm xuống và hạn hán tăng lên). So với 20 năm trước, tốc độ 
gió toàn cầu nay thổi nhanh hơn 5-10%, tại nhiều nơi tại khu vực nhiệt đới, thậm 
chí đến 20%. Ðiều này cắt nghĩa vì sao cường độ tàn phá của bão tố đã trở nên dữ 
dội khác thường (17) 
     2. Các nhà máy, trong quá 
trình sản xuất, đã không ngừng thải những chất ô nhiểm và độc hại vào không khí, 
vào đất và nước. Những khu công nghiệp lớn, ví dụ như vùng Ruhr nước Ðức, đã 
thải ra hơn 300 chất. Trong số đó, nhiều chất gây nên bệnh tật và ung thư. SO2 
và NO2 chẳng hạn, chúng là nguyên nhân gây ra sương mù nguy hiểm (London-smog), 
từng làm thiệt hại hàng ngàn người trong quá khứ (hơn 4.000 người chết tại Luân 
đôn năm 1952). Với nồng độ cao, SO2 và NOx phá hủy chất diệp lục và ngăn chận sự 
quang hợp, cũng như sự hấp thụ khí CO2. Dưới dạng mưa acít, chúng làm chua đất 
và thủy vực, giết hại tôm cá và những sinh thể khác. Chúng ăn mòn các công trình 
kiến trúc và xây dựng, gây ra những thiệt hại phi thường. Tại Ðức, sự thiệt hại 
này được ước tính từ 2 đến 3,5 tỷ Ðức Mã mỗi năm. Khí CO làm giảm năng suất lao 
động và gây chứng nhức đầu, chóng mặt. 
     Các kim loại nặng cũng nguy 
hiểm không kém. Chì làm yếu bắp cơ, có thể đưa đến liệt bại và biến đổi chức 
năng của gan, thận và não. Cadmium gây bệnh Itai-Itai làm méo mó thể dạng của 
xương v.v... Ðể lọc sạch những chất độc trong nước, Tây Ðức đã phải bỏ 780 triệu 
Ðức Mã hàng năm. Ðể giải độc cho đất, cần phải có một kinh phí khổng lồ khoảng 
60 tỷ Ðức Mã. Tại thành phố Hồ Chí Minh nước và không khí cũng chứa nhiều chất 
độc và hàm lượng đã vượt trên tiêu chuẩn vệ sinh cho phép. Hàm lượng bụi và chì 
đã vượt quá từ 3 đến 11 lần (18). 
     3. Công nghiệp đông lạnh, 
điện tử và cả những bình xịt thuốc cho tóc, đã sử dụng rộng rãi khí CFCI. Khí 
này làm mỏng tầng khí Ozon và đục thủng nhiều nơi. Tầng Ozon được xem như cái 
màn lọc tia cực tím có hại cho sức khoẻ và mùa màng. Tầng Ozon bị mỏng hoặc bị 
đục thủng đã để lọt nhiều tia cực tím tấn công vào con người và sinh vật, làm 
tăng bệnh ung thư da. 
     4. Trong vòng 200 năm nay, 
than dầu được sử dụng thật rộng rãi. Qua quá trình đốt cháy, chúng đã thải một 
lượng khí CO2 làm tăng vọt hàm lượng CO2 trong khí quyển, tạo ra hiệu ứng nhà 
kính, hâm nóng quả đất. Các khu công nghiệp thế giới thải hàng năm 24 tỷ tấn CO2 
- 80% xuất phát từ những nước công nghiệp. Trong tương lai, số lượng này còn cao 
hơn nữa. Theo ước tính của các nhà khoa học, trong vòng 50 năm tới, nhiệt độ 
trung bình thế giới sẽ tăng thêm 1,5 độ C. Trong khi tại Úc châu và Tây Phi châu 
giảm bớt 1 độ C, tại Việt Nam, Ấn độ và Âu châu tăng thêm 3 độ C và Bắc cực tăng 
thêm 5-7 độ C (19)(20). 
     Sự tăng thêm nhiệt độ này 
trước hết đã mang đến sự biến đổi thời tiết, quan trọng hơn nữa là làm băng tan 
và khiến mực nước biển dâng cao. Từ năm 1973 đến nay, lớp băng tại Bắc cực mất 
đi 8% và trên núi Alpe ở Âu châu chỉ còn 1/2. Ðến năm 2050, mực nước biển có thể 
dâng lên từ 0,2 - 1,4 mét (21). Ðiều ấy có nghĩa là 
nước mặn sẽ phủ ngập các vùng duyên hải thấp và sẽ phá hủy đồng bằng phì nhiêu 
và sự sống tại đó. Nó sẽ đưa đến một cuộc di dân ồ ạt lên những vùng cao, nơi mà 
diện tích khả canh đã thu hẹp lại bị xói mòn và hoang mạc hóa. Nếu con người 
không sớm tìm biện pháp đối phó, có lẽ khó tránh khỏi một cuộc cạnh tranh sinh 
tồn gay gắt giữa người với người và một cuộc phá hủy tàn bạo vốn tài nguyên 
thiên nhiên còn sót lại ! 
     Những ví dụ tiêu cực nêu 
trên, đã phơi bày yếu điểm và hiểm họa của sự phát triển vừa qua. Tính tham dục 
"ngày càng nhanh, ngày càng nhiều và ngày càng mới" đã cổ võ và thúc đẩy sự phát 
triển lòng tham ái, khiến con người xa rời nếp sống tỉnh thức, xa rời và đối 
nghịch với thiên nhiên, đã xô con người vào sự phá hoại những nhân tố mà mình 
dựa vào để sinh tồn và phát triển. Sự say mê quyền lợi vật chất đã khiến cho 
nhiều người quên đi những lợi ích lâu dài của nhân loại. Những kẻ tiếp tục bảo 
vệ cho sự phát triển này sẽ nhún vai lãnh đạm trước những tiêu cực và hiểm họa. 
Song một ngày nào đó, biết đâu chính họ và con cháu của họ sẽ trở thành nạn nhân 
của nghiệp báo đau thương. Chúng ta có cảm tưởng rằng họ đi giữa cuộc đời với 
thái độ khá phổ biến của kẻ lái xe trên đường. Kẻ lái xe thường không nghĩ rằng 
mình có thể là người gây ra tai nạn hoặc chịu tai nạn. Trong tiềm thức họ, vấn 
đề tai nạn là vấn đề của người khác. Chỉ có người khác mới gây ra tai nạn hay 
thọ nạn. Ðến khi lâm cảnh tai bay họa gởi thì đã muộn rồi. Lời Phật trong kinh 
Pháp cú thấm thía làm sao ! "Kẻ ngu vì tham giàu hại mình hại người" và "Ác 
nghiệp chưa chín mùi, người ngu nghĩ là ngọt. Khi ác nghiệp chín mùi, người ngu 
chịu khổ đau". 
      Sớm thức tỉnh "ác nghiệp" 
của sự phát triển đã qua, Schumacher, nhà kinh tế học Anh, giữa thập niên 1970, 
đã đề nghị một mô hình "Kinh tế Phật giáo" (22), một 
mô hình kinh tế phi bạo lực, không bóc lột, song hợp tác với thiên nhiên, dựa 
trên những nguyên tắc của sinh thái lành mạnh và trên một nền công nghiệp có 
khuôn mặt con người. Mô hình kinh tế này cổ võ con người nên sống theo "chánh 
nghiệp". Rất tiếc đến nay chưa có Phật tử nào triển khai áp dụng hoặc lấy đó làm 
bàn đạp suy nghĩ tiếp về một đường hướng phát triển vừa hợp với những phạm trù 
và xu thế của thời đại, vừa hợp với hoàn cảnh của đất nước và vừa hợp với tinh 
thần Ðạo Phật. Schumacher là một bậc trí tuệ lớn, một nhà tiên tri của phong 
trào sinh thái từ hai thập niên qua. 
     Trong cùng trăn trở và nổ 
lực truy tầm một nội dung phát triển mới, không ngầm chứa đại họa cho nhân loại, 
Meadows đã công bố năm 1972 "Phúc trình thứ nhất" cho "Câu lạc bộ Rome" về 
"Những giới hạn của phát triển" (23). Phúc trình này 
đã được dịch ra 29 thứ tiếng, là tiếng chuông đầu tiên vang dội khắp toàn cầu, 
đánh thức con người phải suy nghĩ lại và đặt lại vấn đề phát triển. Tiếp theo 
đó, "Global 2000" - phúc trình gởi tổng thống Mỹ 1980, "Mô hình thế giới 
Brundtland 1987, v.v... đã đề nghị những nội dung phát triển bền vững, không phá 
hoại những cơ hội phát triển của thế hệ mai sau. Hội nghị Thượng đỉnh về quả đất 
1992 của 178 nước trên thế giới tại Rio de Janeiro, có thể xem như là một cuộc 
tổng kết chung, với khẳng định rằng, để "phát triển lâu bền", phải "bảo vệ môi 
trường". 
     Hội nghị Thượng đỉnh Rio 
1992, tuy gặp nhiều ngờ vực và chỉ trích, song đó là một cố gắng lớn, nhằm tạo 
khúc quanh mới cho sự phát triển bền vững gắn liền với bảo vệ môi trường. Nó đã 
trở thành biểu tượng của một ý thức mới về sự hợp quần chung lãnh trách nhiệm 
xây dựng "một thế giới" (xóa bỏ sự phân chia "thế giới thứ nhất", "thế giới thứ 
hai" và "thế giới thứ ba"). 
     Sự "phát triển lâu bền" được 
quan niệm như là một sự phát triển nhằm thỏa mãn những nhu cầu cơ bản về vật 
chất, tinh thần và văn hóa cho cả thế hệ hiện tại lẫn thế hệ tương lai. Một mặt, 
nó đòi hỏi phải cải thiện những điều kiện sống trên lãnh vực kinh tế và xã hội 
sao cho phù hợp với sự bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. Mặt khác, nó đòi hỏi một 
sự quan tâm và chịu trách nhiệm chung về những vấn đề môi sinh, kinh tế, văn hóa 
và xã hội, trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế. "Sự phát triển lâu bền" 
được nhất thể hóa với "sự bảo vệ môi trường". Trong sự nhất thể hóa này, nội 
dung của "sự phát triển lâu bền" bao gồm 4 điểm cơ bản: 
1. Ðáp ứng được những nhu 
cầu cơ bản của người dân; 
2. San bằng hố sâu cách biệt 
giữa giàu nghèo và hoàn cảnh xã hội; 
3. Bảo tồn các tài nguyên 
thiên nhiên và giữ gìn sự trong sạch của môi trường; 
4. Tạo những điều kiện tốt 
giúp con người nhận thức được giá trị làm người, hiểu rõ được những vấn đề chung 
của nhân loại và biết rõ những gì ưu tiên cần phải thực hiện trước, cũng như 
giúp con người đạt được quyền tự quyết trong cộng đồng. 
     Về mặt "bảo vệ môi trường", 
chúng ta có thể hiểu một cách hạn hẹp rằng đó là chống ô nhiểm không khí, đất 
đai, sông suối hoặc bảo vệ các loài hoang dại trước sự diệt chủng. Nội dung của 
thuật ngữ môi trường, trên mặt xã hội, được hiểu là hoàn cảnh của con người, của 
gia đình và của tập thể. Về mặt không gian, môi trường là địa bàn, là khu vực 
sinh sống của con người dù cho rộng hẹp thế nào chăng nữa. Ðó là những công 
trình xây dựng. Ðó là làng xã, huyện tỉnh, quốc gia và sinh quyển. Về mặt sinh 
vật và sinh thái học, môi trường bao gồm giới vô sinh (đất, nước, không khí) và 
hữu sinh (con người, giới động và thực vật) (24). Bởi 
vậy, "bảo vệ môi trường", trên khía cạnh sinh thái, không chỉ giới hạn trong mục 
tiêu bảo vệ thiên nhiên và qui hoạch cảnh quan. Nó còn bao gồm mục tiêu làm 
thanh lịch quê hương, đất nước, các nơi giải trí, du lịch và mạng lưới cây xanh 
trong thành phố. Về mặt vệ sinh và công nghiệp, mục đích của "bảo vệ môi trường" 
bao gồm sự giữ sạch môi trường không khí, nước và đất đai, cũng như xử lý rác và 
những chất độc hóa học, làm giảm sự gây gắt của thời tiết và ngăn ngừa các tia 
độc hại. 
      Ðể thực hiện "sự phát triển 
lâu bền" gắn liền với "sự bảo vệ môi trường", cần phải thi hành triệt để hàng 
loạt biện pháp, chủ yếu là ổn định dân số, tăng hiệu năng và sự sử dụng năng 
lượng, sử dụng năng lượng mặt trời và sức gió, sử dụng tiết kiệm các nguồn 
nguyên liệu, ổn định hệ sinh thái nông và lâm nghiệp, phân phối kỹ nghệ, giảm 
thiểu và xử lý ô nhiểm. Về mặt tinh thần, con người phải thay đổi quan niệm đánh 
giá thiên nhiên một cách hời hợt, nhất là phải thay đổi thói quen tiêu 
dùng. 
      Nội dung của quan niệm "phát 
triển lâu bền" trong nhất thể với "bảo vệ môi trường" trên đây, gặp gỡ rất nhiều 
điểm trong nội dung con đường sống Bi Trí Dũng mà Ðức Phật chỉ dạy cho những "ai 
khôn ngoan muốn tìm hạnh phúc và ước mong sống với an lành". Nội dung này, một 
phần đã được mô tả qua kinh Từ Bi (25). Thiết nghĩ 
cũng nên ôn lại vài điều. 
      Thứ nhất, mục đích tối 
thượng của con đường Bi Trí Dũng là "Ðem an vui đến cho muôn loài". "An vui" là 
ý nghĩ chân thật của cuộc sống. Ý nghĩa này không nằm trong giàu sang địa vị, 
quyền bính hoặc danh vọng. An vui chỉ đạt được khi 3 điều kiện tối thiểu sau đây 
được thỏa mãn, đó là : nhu cầu vật chất tối thiểu được đáp ứng; ô nhiểm, đe dọa 
và hiểm họa của môi trường được tiêu trừ; và tâm hồn được sung mãn với những giá 
trị Chân Thiện Mỹ. Nhưng an vui không chỉ dành riêng cho con người mà phải lan 
rộng đến "muôn loài", đến chúng sinh, đến tất cả mọi sinh thể. 
     Ðể phục vụ "muôn loài" trước 
tiên phải đạt đến một trình độ nhận thức cao. Ðó là sự thấy rõ tính bình đẳng 
của sự sống và giá trị bình đẳng của sự sống trong mọi sinh thể. Nền tảng của 
nhận thức này là sự hiểu biết rõ ràng về đời sống và điều kiện sống của các sinh 
thể, về tác động qua lại của chúng, về nguyên nhân và hệ quả thiện ác, đồng thời 
hoặc dị thời của mạng lưới duyên sinh trong dòng sinh thành dị diệt vô tận. Kế 
tiếp là phải mở rộng con tim, một con tim biết thương yêu và quí trọng sự sống 
tràn đầy khắp nơi nơi, bất luận trên địa bàn nào, tại sinh cảnh và trú quán nào, 
dù "ở gần ta hoặc ở xa ta" (Kinh Từ Bi), trên không, tại mặt đất, trong nước 
v.v... ("Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa", Kinh Từ Bi). 
     Thứ hai, sự đem an vui đến 
cho muôn loài đòi hỏi một ý thức về giá trị bình đẳng của sự sống xuyên thấu 
thời gian, từ thế hệ này đến thế hệ khác ("Ðã sinh rồi hoặc sắp sinh ra", Kinh 
Từ Bi). Cuộc sống và sự phát triển của chúng ta hôm nay, không thể cướp mất 
những điều kiện sống và cơ hội phát triển của con cháu ngày mai, không thể để 
lại ô nhiểm và hiểm họa cho hậu duệ và phó mặc chúng giải quyết thế nào cũng 
được. Ðạo Phật đã không ngừng khuyên nhủ Phật tử phải thực hành hạnh tinh tấn : 
"Cố gắng tiêu trừ những điều ác đã sinh. Cố gắng đè nén những điều ác có thể 
phát sinh. Cố gắng làm cho những điều thiện phát sinh. Cố gắng phát huy những 
điều thiện đã sinh". Tinh tấn là sức mạnh chuyển đổi bền bỉ, có khả năng tiêu 
trừ tích cực và mang chất lượng Chân Thiện Mỹ đến cho đời. 
      Thứ ba, sự đem an vui đến 
cho muôn loài, đòi hỏi một quyết tâm nhận lấy trách nhiệm vì muôn loài. Trách 
nhiệm này cần được thể hiện một cách rốt ráo, với tất cả con tim và dũng lực của 
một bà mẹ thương đứa con duy nhất, "dám hy sinh bảo vệ cho con" (Kinh Từ 
Bi). 
     Ba điều vừa nêu trên trong 
con đường Bi Trí Dũng có thể giúp Phật tử chúng ta khỏi chạy quanh tìm kiếm 
những nội dung và nguyên tắc hành động khác, hầu đóng góp tốt hơn cho đường 
hướng phát triển lâu bền gắn liền với sự bảo vệ môi trường hiện nay. Vấn đề còn 
lại là Phật tử có thể làm gì một cách cụ thể ? Dĩ nhiên mỗi người có thể tự tìm 
câu trả lời riêng và hành động thích ứng với khả năng và hoàn cảnh của mình; 
song, Phật tử cũng có thể chung nhau tìm những việc cụ thể vừa hợp với khế lý và 
khế cơ, vừa có khả năng cổ động sự trợ lực của nhiều người. Sau đây xin nêu vài 
gợi ý : 
      1. Trước hết, mỗi người phải 
tự bắt đầu từ bản thân trong cuộc sống hàng ngày. Ðức Phật đã đề nghị trong Kinh 
Từ Bi rằng Phật tử nên "sống giản dị", "vui với đời giản dị". Cuộc sống giản dị 
giúp chúng ta giới hạn nhu cầu của mình trong chừng mực cần thiết. Thói quen 
tiêu dùng và lòng ham thích xa hoa là nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp khiến 
cho các nguồn tài nguyên bị khai thác và lạm dụng dữ dội, khiến cho nhiều nhân 
tố phục vụ sự phát triển ngày mai bị mất đi. Sống thiểu dục và biết đủ, theo lời 
Phật dạy, là đóng góp tích cực cho sự ổn định dân số, tiết kiệm nguyên liệu và 
năng lượng và làm giảm sức ép vào môi trường và các hệ sinh thái tự 
nhiên. 
      Sống giản dị không có nghĩa 
là sống không có chất lượng. Chất lượng của Ðạo Phật là "an vui", thay vì tham 
lam, "bận rộn"; là cố gắng bảo vệ muôn loài, thay vì thờ ơ giết hại sinh mạng và 
hủy diệt điều kiện sinh tồn của chúng sinh; là hợp tác vì lợi ích chung ("đồng 
sự và lợi hành") thay vì cạnh tranh giành dựt cho quyền lợi riêng; là siêu vượt 
mình để thể nhập cuộc sống toàn diện, thay vì tách rời và đối nghịch lại thiên 
nhiên. 
      2. Quí vị tăng sĩ và cư sĩ 
quan tâm đến sự bảo vệ môi trường, có thể tiếp tay trong các công tác giáo dục 
và gây ý thức bảo vệ môi trường, hạn chế sinh đẻ, nâng cao vai trò phụ nữ để 
thúc đẩy nhanh sự chuyển đổi thuận lợi cho hoàn cảnh chung v.v..., đặc biệt là 
giúp Phật tử mở rộng kiến thức, phân biệt rõ đâu là lý luận do tham sân si chi 
phối, đâu là hành động hợp với tinh thần Bi Trí Dũng trong nghiệp vụ và sinh 
hoạt hàng ngày. 
      3. Ðể đóng góp cụ thể cho sự 
bảo vệ môi trường, đặc biệt trên khía cạnh bảo vệ cảnh quan và sinh cảnh 
(biotope), có thể kiến tạo những cảnh chùa, tại nơi có mặt bằng thuận lợi, thành 
những điểm cảnh quan thanh lịch. Ngoài cây cảnh, cây ăn quả, cần trồng thêm một 
số cây rừng bản địa. Lý tưởng nhất là xây dựng nhiều tu viện cạnh rừng ("chùa 
đại tùng lâm", "chùa lâm viên"). Tại đây, nhà chùa lãnh trách nhiệm bảo vệ rừng 
thành khu bảo tồn thực và động vật hoang dã. Tại những vườn rau thuộc khuôn viên 
chùa, nên thử nghiệm phương phát trồng tỉa sinh học. Từ đó rút kinh nghiệm đóng 
góp cho cơ hội chuyển đổi phương pháp canh tác dùng quá nhiều phân hóa học và 
thuốc diệt sâu bọ. Ngày xưa, Ðức Phật đã động lòng thương sót những con trùng 
quằn quại sau lưỡi cầy, thì ngày nay, số người áp dụng phương pháp không đào 
cuốc, tránh giết hại sinh vật trong đất và tránh phá hủy trú quán của chúng, 
ngày càng đông đảo. 
      4. Quí vị tăng ni nên vận 
động Phật tử "trồng cây phước đức", "trồng cây trí đức" thay cho tục lệ "hái 
lộc", "bẻ lộc" hoặc cổ võ Phật tử đóng góp tiền cho việc xây dựng "chùa lâm 
viên", vượt thêm một bước xa hơn sự bố thí tiền gạo hoặc phóng sinh chim cá. 
Cũng có thể khuyến khích Phật tử xây dựng một môi trường sống thanh lịch bằng 
cách làm "sạch và đẹp từ bàn thờ trong nhà, ra ngoài sân, đến đường đi và cùng 
khắp đất nước". Lòng tôn kính Ðức Phật, tình yêu quê hương nhờ đó phát triển 
mạnh mẽ hơn.