Tiểu Sử Hòa Thượng THÍCH GIÁC TÁNH
Admin - Ngày đăng: 08:16:49 29-01-2020
Nhân lễ húy nhật lần thứ 33 cố Đại lão Hòa thượng tổ đình Thiên Đức, tại tỉnh Đắk Nông, Thượng tọa Thích Quảng Tuấn, Trưởng BTS PG tỉnh cùng Tăng Chúng Phật tử trang nghiêm kỷ niệm, và sau đây là tiểu sử của bậc tôn sư để môn đệ và tứ chúng được thêm một lần đảnh lễ ân đức giáo dưỡng của Ngài.
****************************************************************************************
Tiểu Sử Hòa Thượng THÍCH GIÁC TÁNH
Viện Chủ Tổ đình Thiên Đức
(1911 – 1987)
------------------------
- Chánh Đại Diện GHPGVNTN miền Liễu Quán (1964 - 1981)
- Phương trượng Tổ đình Thiên Đức, Bình Định (1970 - 1987)
- Giám Luật và Trưởng Ban Quản Trị Tu viện Nguyên Thiều, Bình Định (1969 - 1987)
- Giám Luật Phật Học Viện Phước Huệ tại Tổ đình Thập Tháp, Bình Định (1970 - 1975)
Hòa Thượng thế danh là Võ Phi Long, pháp danh Nguyên Lưu, pháp tự Chí Ý, pháp hiệu Giác Tánh. Thuộc dòng Thiền Lâm Tế đời thứ 44, phái Liễu Quán. Ngài sinh ngày 02/03 Tân hợi (1911), tại làng Vĩnh Lộc, xã Bình Hòa, quận Bình Khê (Tây Sơn), tỉnh Bình Định. Thân phụ Ngài là cụ Võ Trì và thân mẫu là cụ Hà Thị Tước – Pháp danh Nguyên Cáp.
• Năm 1923, do túc duyên từ nhiều đời, Ngài phát tâm xuất gia và được thân mẫu chấp thuận, đưa lên chùa Hưng Long, thôn Dương Lăng, xã Nhơn An, tỉnh Bình Định cầu xin xuất gia với Hòa Thượng Huệ Chiếu.
• Năm 1927, Ngài được thọ Sa Di tại Trường Hương, chùa Long Khánh (Quy Nhơn), do Hòa Thượng Chánh Nhơn làm đàn đầu.
• Năm 1931, Ngài thọ Tỳ Kheo Bồ Tát Giới tại Đại Giới Đàn Gia Khánh tỉnh Bình Định, do Hòa Thượng Huyền Ngộ làm đàn đầu.
• Năm 1934, Ngài đến chùa Thiên Ấn (Quảng Ngãi) tham học với Hòa Thượng Diệu Trang, Tăng cang Tổ đình Thiên Ấn.
• Năm 1935, Ngài trở về Tổ đình Thập Tháp tham học với Quốc Sư Phước Huệ.
• Năm 1936, khi Quốc Sư Phước Huệ được triều đình cung thỉnh ra giảng pháp nơi Hoàng Cung và cho Tăng Ni ở Huế, Ngài được theo Quốc Sư trực tiếp tham học để thêm kiến thức Phật Học.
Trong thời gian lưu trú ở Huế, Ngài học tại Phật Học Đường Tây Thiên do Quốc Sư Phước Huệ giảng dạy. Sau khi ra trường Ngài là một trong những cổ động viên của Đoàn Thanh Niên Tăng Lữ tại Phật Học Đường Báo Quốc (Huế).
• Năm 1942, Ngài được Đà Thành Phật Học Hội cung thỉnh làm giảng sư ở Phật học Đường chùa Phổ Hiền (Đà Nẵng).
• Năm 1943, Ngài trở về chùa Hưng Long (Bình Định) thành lập Phật Học Đường để giảng dạy cho Tăng Ni tại bản tỉnh và một số chúng Tăng của Phật Học Đường chùa Phổ Hiền (Đà Nẵng) đưa vào, cùng thời gian nầy, Đoàn Thanh Niên Tăng Lữ Huế được Ngài đổi thành Đoàn Thanh Niên Tăng Sĩ Bình Định.
Bảo tháp cố Đại lão Hòa thượng Thích Giác Tánh
• Năm 1945, nhiều biến động lịch sử xảy ra, mọi hoạt động của Phật Học Đường bị ảnh hưởng nên phải ngưng sinh hoạt. Một số Tăng Ni trở về trú xứ hoặc tham gia vào các hoạt động xã hội. Các bậc cao minh túc trí lãnh đạo Phật Giáo Bình Định nhận định rằng không thể để tình hình nầy kéo dài, làm ảnh hưởng đến việc đào tạo Tăng tài kế thừa hoằng truyền chánh pháp. Do đó, Ngài đã khởi xướng cùng với Quí Hòa Thượng : Tâm Hoàn, Bình Chánh, Huyền Quang, Kế Châu thành lập Hội Phật Giáo cứu Quốc, đồng thời quy tụ và củng cố lại nội bộ Tăng Già. Trên công việc nầy, Ngài được sự ủng hộ rộng lớn trong quần chúng Phật tử, nên Ngài được bầu vào Hội Đồng Nhân Dân xã Nhơn An và huyện An Nhơn trong những năm 1945 – 1952. Cũng trong lúc nầy, Ngài cùng các Hòa Thượng trên sáng lập Chúng Lục Hòa Phật Giáo liên khu 5.
• Năm 1946, Ngài cùng quí Hòa Thượng sáng lập đã tổ chức hội nghị để đổi tên Hội Phật Giáo Cứu Quốc thành Phật Giáo Việt Nam. Ngài được giữ chức Kinh tài của Phật Giáo Việt Nam tỉnh Bình Định.
• Năm 1948 – 1958, Ngài lần lượt đảm nhận các chức vụ Phó Giám Đốc các Phật Học Đường Thiên Đức, Nhạn Sơn và Thập Tháp.
• Năm 1952, Ngài cùng quí Hòa Thượng trong bản tỉnh tổ chức Trường Kỳ ở chùa Thiên Bình, xã Nhơn Phong, Huyện An Nhơn (Bình Định) để trao truyền giới pháp cho Tăng chúng.
• Năm 1954, Ngài được công cử ra Huế liên lạc với Phật Giáo Trung Phần. Sau khi trở về, Ngài cùng chư tôn túc thực hiện sứ mạng cải tổ hai tổ chức Phật Giáo hoạt động song song với nhau đó là thành lập Giáo Hội Tăng Già và Tổng Hội Phật Giáo.
• Năm 1956, Ngài đảm nhận chức vụ Phó trưởng ban kiến thiết trùng tu Tổ đình Thập Tháp Bình Định.
• Năm 1958, Ngài cùng Hòa Thượng Tâm Hoàn trùng tu ngôi Tổ đình Long Khánh, Qui Nhơn. Cũng trong năm nầy, Ngài được Hòa Thượng Thích Trí Thủ Giám Đốc Phật Học Viện Trung Phần (Hải Đức, Nha Trang) thỉnh cử vào hàng Thập sư truyền giới tại Giới Đàn Nha Trang.
• Năm 1959, Ngài trùng tu Tổ đình Hưng Long và làm trưởng ban Quản Trị Tu Viện Nguyên Thiều.
• Năm 1961, Giáo Hội Tăng Già Trung Phần cung cử Ngài làm Phó Ban Trị Sự, đồng thời mở Đại Giới Đàn tại chùa Linh Quang và cung thỉnh Ngài vào hàng Thập Sư truyền giới.
• Năm 1963, Ngài được suy cử làm tổng thư ký cho hai tổ chức Giáo Hội Tăng Già và Tổng Hội Phật Giáo để lãnh đạo cuộc đấu tranh đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo của Tăng tín đồ Phật Giáo tỉnh Bình Định.
• Năm 1964, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập, Ngài được Viện Hóa Đạo công cử Ngài làm Chánh Đại Diện Miền Liễu Quán và thành viên của Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương Viện Tăng Thống. Cùng năm nầy, Ngài cùng chư huynh đệ trùng tu lại ngôi Tổ đình Thiên Đức.
• Năm 1968, Miền Liễu Quán tổ chức Đại Giới Đàn tại Phật Học Viện Nha Trang, cung thỉnh Ngài vào hàng Thập sư truyền giới và Đại Giới đàn tại chùa Long Khánh Quy Nhơn đã cung thỉnh Ngài làm Giáo Thọ A Xà Lê.
• Năm 1969, Giáo Hội cải tổ hai hệ thống hóa tổ chức hành chánh các Phật Học Viện toàn quốc, Ngài lần lượt được suy cử các chức vụ như: Cố vấn, Giám luật, Giáo thọ trưởng… ở nhiều Phật Học Viện, nhất là ở hai Phật Học Viện Nguyên Thiều và Phước Huệ.
• Năm 1971, Miền Vạn Hạnh tổ chức Đại Giới Đàn Vĩnh Gia tại Phật Học Viện Phổ Đà Đà Nẵng, Ngài được cung thỉnh vào hàng Thập Sư truyền giới.
• Năm 1973, Miền Liễu Quán tổ chức Đại Giới Đàn Phước Huệ tại Phật Học Viện Trung Phần Nha Trang, Ngài được cung thỉnh làm Yết Ma A Xà Lê truyền giới.
• Năm 1979, Ngài được mời vào Ban vận động thống nhất Phật Giáo Việt Nam do Hòa Thượng Thích Trí Thủ làm trưởng ban.
• Năm 1981, tại Đại Hội Đại Biểu Thống Nhất Phật Giáo toàn quốc họp tại Hà Nội, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam được thành lập, Ngài được suy cử vào Hội Đồng Chứng Minh Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
• Năm 1982, Ngài đã góp phần vận động thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tỉnh Nghĩa Bình Khóa I và Cố vấn cho Ban Trị Sự Phật Giáo tỉnh trong khóa II.
• Năm 1982 – 1985, tại Tổ đình Long Khánh (Quy Nhơn), Ngài liên tục được cung thỉnh làm Thiền chủ trong các mùa An Cư Kiết Hạ.
• Năm 1986, Ngài nhận thấy pháp thể khiếm an và nhân duyên hóa độ viên mãn. Theo nguyện vọng của Ngài và Sơn Môn, Ngài được đưa về Tổ đình Thiên Đức để tịnh dưỡng. Trong thời gian nầy, Ngài đã ân cần dạy bảo Tăng chúng, Phật tử những điều thiết yếu để có thể sống hữu ích cho Đạo, cho đời.
Vào lúc 4 giờ sáng ngày 04 tháng giêng năm Đinh Mão (1987) Ngài đã an nhiên thị tịch tại Tổ đình Thiên Đức thôn Háo Lễ , xã Phước Hưng, huyện Tuy Phước, Tỉnh Bình Định. Thế thọ 77 tuổi đời, 56 hạ lạp.
NAM MÔ TỪ LÂM TẾ CHÁNH TÔN TỨ THẬP TỨ THẾ THIÊN ĐỨC ĐƯỜNG THƯỢNG Húy Thượng NGUYÊN Hạ LƯU, Tự CHÍ Ý Hiệu GIÁC TÁNH TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG TÔN SƯ GIÁC LINH
Các Tin Khác