ÔNG GIÀ ĂN MÀY NGỘ ĐẠO
Năm 1960 ở xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên có một người ăn mày, miệng bị di tật, nước miếng hay nhiểu thều thào ra miệng nên dân vùng đó thường gọi là “ông nhểu”. Cha mẹ ông qua đời từ lúc ông còn nhỏ, ông không có thân nhân nào nữa, người lại bị tật nguyền, không biết nương tựa vào ai đành phải đi xin ăn mà sống. Cuộc đời không nhà không cửa phải đi xin ăn thường bị người ta coi rẻ, nhất là trẻ nhỏ hay chọc ghẹo. Ông rất buồn tủi cho thân phận thiếu phước và nhẫn nhục lủi thủi sống cho qua ngày tháng một kiếp ăn mày.
Tuy sống trong cảnh bần cùng, nhưng ông không hận đời mà có tâm lương thiện và có lòng hiếu thảo, ông nghĩ thương cha mẹ đã chết sớm, hằng ngày đi xin được ít tiền ông cũng nhín mua một vài trái cây về cúng. Muốn làm chay cầu siêu cho cha mẹ nhưng không có tiền, ông nguyện trong lòng sẽ cố gắng xin ăn, rồi dành dụm chút ít tiền để đến ngày rằm tháng bảy lên chùa “Đá Trắng” tức chùa Từ Quang cúng đèn nhang cho Phật độ vong linh cha mẹ ông được siêu thoát. Không ngờ tâm thành và lòng hiếu thảo của ông làm cảm động đến lòng từ bi của Đức Phật và chư vị Hộ Pháp ở chùa Đá Trắng, nên Hộ Pháp báo mộng cho Hòa thượng Thích Phước Hộ trụ trì chùa Đá Trắng (chùa Từ Quang) biết trước: “Ngày rằm tháng bảy có ông ăn mày Nhểu đến chùa cúng Phật báo hiếu cho cha mẹ, Hòa thượng nên nhận ông làm đệ tử”. Thật đúng với câu người xưa nói “Tâm mới động mà thần thánh đã biết”. Ông ăn mày chỉ thầm nguyện trong tâm chẳng dám nói với ai, thế mà Phật, Hộ Pháp đã biết và báo mộng cho Hòa thượng trụ trìchùa Đá Trắng độ cho ông!.
Quả nhiên trưa rằm tháng bảy, ông ăn mày Nhểu vai mang bị ăn xin, tay chống gậy từ dưới chân núi đi từng bước lên chùa Đá Trắng ở lưng chừng núi. Khi lên đến chùa, thấy đông đảo Phật tử đang lễ lạy, ông xin mấy người đứng ngoài chánh điện cho ông vào làm lễ cúng Phật. Những người Phật tử vùng đó ai cũng biết ông Nhểu ăn mày, thấy ông áo quần xốc xếch, miệng nhểu nước miếng, sợ vào chánh điện làm dơ bẩn nơi tôn nghiêm, nên cố ý không muốn cho ông vào, họ bảo ông đi xuống nhà bếp mấy cô lấy cơm cho ăn. Ông bình thản trả lời rằng: “Hôm nay tôi đến cúng chùa lễ Phật và cúng tiền nhang đèn, chứ không phải xin ăn. Lâu nay tôi dành dụm được mười đồng để cúng Phật, các ông không cho tôi vào cúng, thôi tôi để đây cầu Phật chứng cho!”. Rồi ông để mười đồng tiền kẽm xuống thềm chùa, cúi đầu lạy ba lạy rồi đi!.
Ngày rằm tháng bảy là ngày lễ “báo hiếu” theo truyền thống Phật giáo, ngày đó Phật tử và thập phương bá tánh về chùa rất đông, Hòa thượng rất bận rộn tiếp khách. Đến khi khách hơi vãng, Hòa thượng sực nhớ giấc mộng và hỏi qúy Phật tử: “Từ sáng đến giờ có ông ăn mày nào đến chùa không?”. Phật tử trả lời: “Có ông ăn mày Nhểu đến khi nãy, chúng con bảo ông xuống nhà bếp mấy cô lấy cơm cho ăn, nhưng ông nói hôm nay ông đến chùa cúng Phật chứ không phải ăn xin, rồi ông để mười đồng trước thềm, lạy Phật và đi cách đây độ vài chục phút”. Hòa thượng hối Phật tử chạy đi kêu ông trở lại, một chặp sau thì ông đến.
Gặp Hòa thượng ông cung kính chắp tay xá chào, Hòa thượng nói: “Tôi nhận ông làm đệ tử, ông có chịu không?”. Ông ăn mày ngạc nhiên nhìn Hòa thượng, đâu ngờ Hòa thượng không chê mình thấp hèn mà nhận làm đệ tử, quá xúc động ông thưa: “Hòa thượng từ bi nói vậy, chớ phận con là kẻ ăn mày thấp hèn đâu dám làm đệ tử của Hòa thượng”. Hòa thượng bảo: “Người thì có kẻ sang người khổ, nhưng Phật tánh thì bình đẳng như nhau. Tuy kiếp trước ông không biết tích đức nên kiếp này phải trả quả ăn xin, nhưng lòng ông đã hối hận biết nghĩ tưởng đến báo hiếu cho mẹ và tỏ lòng cung kính Phật pháp, nên đêm qua Hộ pháp có báo mộng cho tôi là hôm nay ông lên chùa cúng Phật. Nay tôi nhận ông làm đệ tử, ông cố gắng tu tâm dưỡng tánh niệm Phật để chuyển nghiệp cho được hưởng quả tốt lành”. Ông ăn mày không dám thưa điều gì nữa, liền quỳ xuống sụp lạy Hòa thượng xin thọ nhận quy y. Hòa thượng ban pháp danh, rồi lấy phái quy y ghi tên và pháp danh vào phái cấp cho ông làm đệ tử tục gia. Ông mừng quá hai hàng nước mắt rưng rưng lạy tạ Hòa thượng và cẩn thận cất phái quy y vào túi xách ăn mày, xá chào mọi người, rồi ra đi.
Một tuần lễ sau, người ta phát hiện ông ăn mày Nhểu chết bên bờ đường làng. Lục túi xách ăn mày của ông thấy có phái quy y của Hòa thượng trụ trì chùa Từ Quang ký cấp cho ông, người ta hết sức ngạc nhiên ông ăn mày Nhểu lại là đệ tử của Hòa thượng Thích Phước Hộ danh tiếng! Khi biết là đệ tử của Ngài thì ai cũng quý trọng dù đó là ông ăn mày. Bởi vì Hòa thượng Thích Phước Hộ là bậc chân tu, đạo cao đức trọng danh tiếng cả nước, đã từng giữ chức Giám luật Hội đồng viện Tăng Thống, sau được đề cử lên ngôi vị Tăng Thống của Giáo hội Phật giáo trước 1975, nhưng Ngài không chịu nhận. Chùa Đá Trắng là ngôi chùa tiếng tăm từ xưa đến nay được bậc cao tăng thạc đức trụ trì càng nổi danh, nên nói đến ông ăn mày Nhểu là để tử của Hoà thượng Thích Phước Hộ, vừa mới chết bên đường làng thì lập tức Khuông hội Phật giáo đến nơi đưa xác ông về khuông hội, báo tin về chùa Đá Trắng và thông báo cho các khuông hội trong xã biết để cùng chung lo mai táng ông ăn mày. Phật tử chung góp tiền mua hòm liệm ông tử tế.
Ngày xưa đám ma ông có qúy thầy chùa Từ Quang và Phật tử các khuông hội đưa đi rất đông, có cả cờ, chiêng, trống và tiếng tụng kinh niệm Phật, trở thành một đám ma lớn nhất làng từ trước đến giờ, hơn hẳn đám ma của các nhà giàu trong vùng. Nhìn đoàn người và cờ xí, chiêng trống đưa đám ma, ai cũng ngạc nhiên cho là ông ăn mày Nhểu có phước lớn mới được đám ma tử tế, có đầy đủ nghi tượng đưa tang, lại được quý thầy và đông người đưa như vậy. Từ đó người ta đồn rằng: “Ông ăn mày Nhểu ngộ đạo chùa Đá Trắng”.