Tu hành đúng pháp

Tu đúng pháp Phật là đoạn trừ toàn bộ mê vọng và thực hiện tất cả các hạnh nguyện độ sanh, viên mãn bi trí, phải biết chối từ các quán trọ của Hoá thành, trực chỉ về Bảo sở để thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ngược lại, nếu người tu Phật với mục đích cầu danh lợi, cầu phước báo nhơn thiên là sai với pháp Phật.
Muốn tu đúng pháp Phật, phải thực hiện viên mãn tự độ và độ tha. Tự độ hay tự lợi là ứng dụng pháp Phật, tu hành để giải thoát tự thân. Trong vô lượng pháp môn, tuỳ theo căn cơ sai biệt mà mỗi hành giả chọn lấy một pháp, như Thiền, Mật, Luật, Tịnh độ v.v…
Nhưng then chốt và chung nhất, phải thành
tựu Giới-Định-Tuệ, trong đó, giới quan trọng nhất, giới là nền tảng,
làm hàng rào che chắn các nhiễm ô xâm nhập từ bên ngoài do tác dụng của
căn trần. Giới cũng là thành trì vững chắc ngăn cản sự dấy khởi của tà
niệm bên trong. Người tu Phật phải có giới và giữ giới. Giới giúp cho
hành giả không còn tạo các nghiệp ác. Giới giúp cho thiện căn ngày một
thêm lớn. Giới là cội rễ của Định, Tuệ. Giới quan trọng tới mức “giới
luật còn thì Phật pháp còn”. Bởi vì tâm chúng ta, từ vô thỉ kiếp cho đến
ngày nay, liên tục vọng động, duyên theo cảnh mà tạo nghiệp. Cho nên,
định tâm đối với người tu Phật rất quan trọng. Muốn đạt được sự định tâm
cần có nhiều phương pháp, nhưng căn bản có hai cách: Tu Chỉ và tu Quán.
Chỉ nghĩa là dừng, trụ tâm vào một pháp, chuyên nhất với pháp, khiến tâm không còn chỗ trống, không còn đất để cho phiền não dung thân. Đó là tu Chỉ để đạt được sự định tâm. Quán nghĩa là dùng trí để quán sát, chiếu liễu để thấy được thực tướng của các pháp. Có nhiều phương pháp quán: Quán Tứ đế, quán Nhân duyên, Ngũ đình tâm quán v.v…, nhờ quán, giúp hành giả biết một cách tường tận về bản chất của các pháp là giả. Nhận thức được điều đó nên tâm không còn bị ràng buộc, dính mắc vào cảnh, nên hành giả đạt được sự định tâm. Định tâm càng lớn, sức định càng dày thì phiền não càng co hẹp lại. Đây là cơ sở cho trí tuệ phát sanh, nên nói “nhân Định phát Tuệ” là vậy.
Trí tuệ của Phật giáo không phải sự thông minh của thế gian. Trí tuệ của Phật giáo đồng nghĩa với không còn vô minh, nên thân chứng được thực tướng của các pháp. Sự vật dưới con mắt trí tuệ là những gì đang là, chúng tương lập tương thành, tương sinh, bất tăng, bất giảm. Nhờ trí tuệ, màn vô minh bị chọc thủng, mọi tình chấp bị cuốn phăng cùng với nhiễm ô, cấu uế, bọt bèo. Giáo lý Đức Phật tuy có tam tạng Thánh điển với vô lượng pháp môn nhưng chung quy không ngoài Giới-Định-Tuệ. Người tu Phật thành tựu Giới-Định-Tuệ là viên mãn phần tự lợi.
Nhưng
chỉ đứng ở tự lợi, giải thoát cho riêng mình thì chưa đủ, vì pháp Phật
là viên dung bi trí, nên hành giả phải thực hiện lợi tha. Phật là bậc đã
tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Lợi tha có nghĩa là đem trí tuệ
và đức độ của mình để làm lợi ích cho chúng sanh. Tuỳ theo khả năng,
trình độ và nội chứng của mỗi cá nhân mà độ tha cũng có thứ bậc và sai
biệt, người thực hành lợi tha, cụ thể và đơn giản nhất là đem của cải,
vật chất bố thí chia sớt cho những người nghèo, mua sắm thuốc men hoặc
làm thuốc để xoa dịu nỗi đau của bệnh nhân, hoặc động viên, an ủi đỡ đần
những con người bất hạnh, tham gia công tác xã hội, xây dựng những công
trình công cộng v.v… Tiến đến, hành giả phải đem giáo pháp của Đức Phật
giảng nói để chúng sanh biết phương pháp tu hành, khiến họ tin hiểu
nhân quả, tội phước mà làm lành lánh dữ, xả ác phục thiện.
Sau đó, chúng ta lần lượt dẫn dắt họ tiến vào sâu hơn trong biển pháp, khiến họ tin hiểu cuộc đời là khổ, là vô thường, biết các nguyên nhân gây ra khổ đau rồi ứng dụng tu hành để diệt khổ. Người thực hành lợi tha còn giúp họ thấy được các pháp hữu vi tồn tại trong quan hệ duyên sinh không có thường ngã, không chủ thể, để họ cởi bỏ những định kiến, thần ngã, duy thần, đấng tạo vật v.v… Cao hơn nữa, hành giả phải triển khai giáo pháp khiến họ biết chân tâm, tin hiểu mình có Phật tánh sáng suốt, nhiệm mầu mà hàng phục vọng tâm, xả ly mọi phiền não, vượt thoát mọi ràng buộc khổ đau, để họ luôn luôn an ổn, tự tại và vô úy.
Lợi tha phải xuất phát từ đại bi tâm thì mới gọi là lợi tha đúng với pháp Phật. Vì sao? Đại bi tâm là tình thương rộng lớn, rộng rãi bao trùm và không phân biệt. Bi phát khởi nhờ Trí. “Hiểu được mới thương được”. Nhờ trí tuệ nên nhận thức được tất cả chúng sanh tuy sai biệt trên hình thức nhưng đều có tánh giác ngộ. Có trí tuệ nên người tu Phật biết rằng mình và tha nhân không phải là hai mà liên quan mật thiết với nhau trong quan hệ trùng trùng duyên khởi tương sanh, tương diệt. Dưới ánh sáng trí tuệ nên người tu Phật thực hành lợi tha vượt lên nhân ngã, không còn phân biệt mình và người. Làm tất cả nhưng không thấy mình làm. Cho tất cả nhưng không thấy mình cho và người được cho. Đây mới là chân chánh lợi tha đúng với pháp Phật.
Tuy nhiên, lợi tha không phải là việc thứ hai sau khi đã tự lợi mà lợi tha và tự lợi phải song hành. Trong tự lợi có lợi tha và ngược lại. Vì Bi và Trí không hai. Trí chính là Bi và Bi cũng chính là Trí, nên độ tha chính là tự độ và tự độ chính là lợi tha. Tự độ, độ tha bất nhị, không phân biệt, siêu việt lên tất cả sự đối đãi tương đối. Đây chính là chỗ cùng tột của pháp hành mà cũng chính là lúc Chân tâm, Phật tánh hiển bày. Cho nên nói, thực hiện viên mãn tự lợi và lợi tha là tu đúng pháp Phật.
Như trên đã trình bày, tu đúng pháp Phật
là thực hiện lần lượt đến viên mãn tự lợi và lợi tha. Đức Phật Thích-ca
Mâu-ni, đấng Giáo chủ của chúng ta, sau khi thành đạo dưới cội Bồ-đề, đã
đem đạo giác ngộ giải thoát của Ngài truyền dạy cho chúng sanh, giúp
chúng sanh giác ngộ và giải thoát. Bồ-tát Địa Tạng phát đại thệ nguyện
cứu độ sinh linh khắp các cõi địa ngục.
Bồ-tát Phổ Hiền, Bồ-tát Quan Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí, chư vị Bồ-tát đều có hạnh nguyện rộng lớn cứu độ muôn loài và chư vị Tổ sư, vừa tu hành tự giải thoát, vừa làm tất cả các Phật sự, giáo hoá đồ chúng, khai thị đệ tử, tham gia cố vấn triều chính để lợi nước, ích dân như Khuông Việt Thái sư, Vạn Hạnh Thiền sư v.v… Gần đây nhất và nổi bật nhất là Bồ-tát Quảng Đức, sau khi phát huy trí tuệ, Ngài đã thành lập đạo tràng, mở mang Già-lam, xây dựng chùa tháp và tiếp Tăng độ chúng. Ngài đã xả thân bảo vệ đạo pháp với một minh chứng hùng hồn “Trái tim Bồ-tát bất diệt”. Bồ-tát Quảng Đức phát nguyện thiêu thân, khai sáng đuốc tuệ: Ánh lửa Từ Bi, Đại hùng, Đại lực để bảo vệ Đạo pháp, làm chấn động năm châu, nhân loại khâm phục… và hàng Phật tử tôn kính ngưỡng mộ.
Tóm lại, tu đúng pháp Phật là mục đích, tôn chỉ của tất cả những người tu Phật. Hành giả muốn tu hành đúng pháp Phật phải thành tựu Giới-Định-Tuệ, thực hành tự lợi với lợi tha, viên mãn Bi Trí. Không phân biệt tại gia hay xuất gia, không ngăn cách giữa giai cấp, tôn giáo hoặc dân tộc. Hễ người nào ứng dụng pháp Phật tu hành, tự giải thoát cho mình và hướng dẫn mọi người cùng tu để tiến lên tất cả cùng giải thoát, sống trong thế giới thanh tịnh và an lạc, biến Ta-bà thành Tịnh Độ, thì người ấy tu hành đúng pháp Phật. Ngược lại, dù bất cứ hình thức nào, tu mà không có Giới-Định-Tuệ, không thành tựu Bi Trí, không viên mãn tự lợi và lợi tha, không giúp mình và người cùng giải thoát giác ngộ, thì người ấy tu sai với pháp Phật.