Trước khi giải đáp vấn đề này, chúng ta có thể nhìn lại một vài pháp hạnh tiêu biểu trong cuộc đời tu tập của A-nan. Đồng thời tìm hiểu khái quát nội dung toàn bộ tư tưởng kinh Lăng-nghiêm, từ đó, chúng ta có thể khẳng định mà không sợ sai lầm, tại sao Đức Phật trực tiếp giáo dưỡng ngài A-nan như thế.
Hồi tưởng lại những năm tháng tòng học
tại Phật học viện Liễu Quán, chùa Linh Quang, Huế, chúng tôi rất may mắn
có chút phước duyên được Ôn Linh Quang (HT Thích Mật Nguyện) tận tụy
ròng rã hai năm hướng dẫn dạy dỗ. Đã vậy, khi theo học tại Phật học viện
Huệ Nghiêm, một lần nữa lại được HT Viện trưởng Thích Trí Tịnh ân cần
dạy dỗ, tuy giảng dạy đại cương nhưng lần này thực sự đã đem lại cho
chúng tôi một sự nhận thức sâu sắc về giáo nghĩa của bộ kinh này, đặc
biệt với sự chú giải trực chỉ của ngài Đơn Hà đã làm sáng tỏ những ý
nghĩa sâu xa của nó. Từ đó đến nay, cứ mỗi lần được thỉnh giảng tại các
lớp Phật học là dịp để chúng tôi ôn lại, đào sâu và tìm hiểu thêm về
toàn bộ tông bổn của Lăng-nghiêm.

Có thể nói một mặt kinh Lăng-nghiêm là một bộ kinh tổng nhiếp tất cả các yếu lý toàn bộ kinh tạng thánh giáo, nếu không muốn nói là Tam tạng, cụ thể là bao quát những tư tưởng chính yếu, tuy đại đồng tiểu dị nhưng đại thể không ngoài giáo nghĩa của Lăng-nghiêm như bốn kinh: Viên Giác, Lăng Già, Giải Thâm Mật và Duy Ma Cật; và bốn bộ luận: Trung Quán, Khởi Tín, Thành Duy Thức và Ma Ha Chỉ Quán. Không những thế lại được ngài Hàm Thị Thiên Nhiên sớ giải bằng cách chỉ thẳng vào chơn tâm thường trú, lý thể tuyệt đối của chúng sanh, càng làm cho kinh Lăng Nghiêm vốn dĩ đã là hệ triết học Phật giáo thậm thâm vi diệu lại càng vi diệu hơn. Mặt khác, những ý nghĩa đã được Đức Phật giảng dạy từ đầu đến cuối, không nhiều thì ít đều không ngoài mục đích là lấy sự thực tiễn chuyên tâm tu tập, đoạn tận phiền não nhiễm ô làm nền tảng cơ bản cho tiến trình tu chứng của người tu đạo.
Điều này đã cho chúng ta thấy rằng những giáo pháp được Đức Phật trình bày càng thậm thâm vi diệu bao nhiêu, thực chất lại gần gũi chúng ta bấy nhiêu, chẳng hạn những gì mắt thấy tai nghe thường nhật của chúng ta đều phát xuất từ chơn tâm thường trụ hay tự tánh mà chúng ta không có khả năng tự lãnh hội được. Ngoài ra, kinh Lăng-nghiêm còn xác định những tông chỉ cơ bản mang tính chủ đạo cho tất cả các tông phái, tiêu biểu: Thiền tông, Mật tông (Chơn tông), Luật tông và Tự Tánh Tịnh Độ tông (không phải là Trì Danh Niệm Phật Tịnh Độ). Đây là bốn tông phái đang được thạnh hành tại các nước Phật giáo Á Châu ngày nay.
Trên đây chúng tôi đã khái quát một vài điểm chủ yếu của kinh Lăng-nghiêm, chừng ấy cũng đủ nói lên tầm mức quan trọng và thiết thực như thế nào đối với những ai tu học theo Phật, đó là chưa đề cập đến toàn bộ nội dung Tam tạng Thánh giáo trong đó có vô số pháp môn, pháp môn nào cũng đều thậm thâm vi diệu, thế mà đức Như Lai lại bảo A-nan: “Ông tuy ghi nhớ kho tàng Diệu nghiêm bí mật của Như Lai cũng không bằng một ngày tu vô lậu nghiệp” là nghĩa làm sao? Đó là chưa nói đến người đương cơ trong pháp hội này không ai khác chính là A-nan - Thánh đệ tử, xuất thân từ dòng tộc vương gia, thứ năm của Hộc Phạn vương, ra đời đúng vào đêm đức Thích-ca Thành đạo khoảng 594 B.C và 25 năm sau xuất gia tu đạo trong giáo đoàn của Như Lai.
Từ đó, trong cương vị là thị giả của Phật, Ngài rất mực cần cù siêng năng tu học và làm tròn tất cả mọi pháp hạnh trong bổn phận của mình, đã được đại chúng và mọi người đương thời tôn vinh là “Đa văn Đệ nhất” - một trong mười cao đệ của Phật.
Chúng ta có thể thấy được cuộc đời tu tập của A-nan thanh cao, siêu thoát và thánh thiện biết bao! Có lần Đức Phật bảo: “Này Văn Thù! A-nan đã làm thị giả tôi trên hai mươi năm (bấy giờ A-nan trên dưới bốn mươi tuổi) đã đầy đủ tám việc bất khả tư nghì: 1. Suốt đời nguyện không thọ biệt thỉnh, không đến nhà thí chủ một mình, nếu không có chúng tăng cùng đi; 2. Y cũ của Như Lai, A-nan tuyệt đối không thọ nhận; 3. Ngày đêm lúc nào cũng tưởng như đang trông thấy Phật, không trái oai nghi; 4. Thấy nữ nhân không khởi dục tâm; 5. Nghe Phật thuyết khỏi phải hỏi lại vì đã hiểu rõ; 6. Biết rõ giờ giấc nhập định của Phật; 7. Biết tâm niệm đại chúng cần gì, thưa thỉnh Như Lai hoặc tìm mọi cách làm lợi ích cho họ; 8.
Biết Phật sẽ thuyết giảng những pháp yếu gì (kinh Niết-bàn, quyển 40); và cũng kinh này ghi rằng: “Phật bảo đại chúng: A-nan có đầy đủ tám pháp và nhất là khả năng ghi nhớ mười hai bộ kinh không sai sót: 1. Tín tâm kiên cố; 2. Tâm thường chất trực; 3. Thân không bệnh khổ; 4. Tinh tiến tu tập; 5. Niệm tâm đầy đủ; 6. Tâm không kiêu mạn; 7. Thành tựu định tuệ; 8. Nghe Phật thuyết pháp liền phát sanh trí lực”. Trên đây là những sự tán dương công hạnh của Đức Phật đối với A-nan, có lẽ nhờ những đức tính cố hữu này mà A-nan vượt qua một tai nạn thật vô cùng nguy hiểm trong cuộc đời tu tập của mình, đó là “Ma-đăng-già nữ” được kinh Lăng-nghiêm chuyển tải vô cùng sâu sắc, thiết thực và cảm động. Bắt đầu từ duyên khởi này Đức Phật mới thuyết kinh Lăng-nghiêm.
Thế thì tại sao Đức Phật đối với A-nan một người có đầy đủ tám việc bất khả tư nghị và tám pháp thù thắng như thế, nhất là chỉ có A-nan, một đệ tử trong tất cả các đệ tử có trí tuệ phi phàm ghi nhớ không sai sót mười hai bộ kinh; với một nội lực huân tu thâm hậu như thế, nhưng tại sao còn phải vướng nạn Ma-đăng-già?
Phải chăng tất cả bắt nguồn từ hữu và vô hữu nghiệp? Vậy vô lậu nghiệp là gì? Đó là sự đoạn tận phiền não đưa đến phạm hạnh thanh tịnh, còn gọi là chánh hạnh thanh tịnh. Nói cách khác, đứng đầu hữu lậu pháp tức phiền não là vô minh ái dục, sự ái dục này bắt nguồn từ lục căn môn mở cửa suốt ngày đêm, là cơ hội thuận tiện nhất cho sáu trần xâm nhập làm nhiễm ô chơn tâm thường trụ, khiến chúng sanh đọa lạc tam giới lục đạo. Kinh Pháp Hoa ghi: “Tam giới sở sanh, tham dục vi căn”.
Kinh A-hàm ghi: “Tam giới sanh tử, dục vi đệ nhất”. Kinh Viên Giác ghi: “Dục giới chúng sanh giai dĩ dâm dục nhi chánh tánh mạng” v.v… Có thể nói, ngày nào hữu lậu phiền não hiện hữu ngày ấy chúng sanh còn mãi sanh tử luân hồi, khi nào hữu lậu được đoạn tận, vô lậu tức khắc hiện tiền, đó chính là Niết-bàn tịch tịnh ngay trong hiện thế. Thế mới biết tu tập vô lậu nghiệp là việc làm cần kíp và quan trọng đến mức nào cho những ai được gọi là con Phật. Chính vì thế nên Đức Phật mới bảo A-nan chỉ cần tu tập vô lậu dù trong một ngày còn hơn cả ức trì Như Lai bí mật diệu nghiêm. Điều này chúng ta cũng có thể hiểu là học rộng nghe nhiều mà không thực tiễn tu tập, không thực đoạn trừ phiền não thì tất cả cũng chỉ là hý luận mà thôi.
Tóm lại, kinh Lăng-nghiêm và ngài A-nan, nói chung pháp hội Lăng-nghiêm là một tấm gương nêu cao cho tất cả những ai phát tâm tu học trong chánh pháp của Như Lai mà chỉ một mặt hướng về đa văn nghe nhiều học rộng, xao lãng công phu tu tập, muốn đoạn tận hữu lậu ái nhiễm thì hãy lấy đó soi rọi cuộc đời, bất luận tông nào, phái nào và thời đại nào. Đây cũng chính là điểm khác biệt giữa chư Phật và chúng sanh, giữa Thánh nhân và phàm phu, giữa Tăng-già và người thế tục, tất cả là ở điểm này, chỉ khác có một từ là hữu lậu hay vô lậu mà thôi. Như Lăng-nghiêm Nhiếp Luận, ngài Thái Hư Đại sư đã nói: “Chơn định bắt nguồn từ chơn tuệ mà có được, chơn giới bắt nguồn từ định tuệ mà thành”.
Chơn giới tức là Kim cang tâm địa giới cũng chính là Diệu trang nghiêm hải. Vô biên công đức đều là chơn giới tướng, vô thượng Bồ-đề chính là chơn giới thể, cho nên thành Phật độ sanh đến tận vị lai, ngoài việc trì tịnh giới, đoạn dâm ái nghiệp ra, hành giả Đại thừa không còn bất cứ việc gì khác! Bởi vì trì dâm giới tức là tu Thủ Lăng-nghiêm Tam-muội.
Đây cũng là một tiếng chuông cảnh tỉnh biết bao nhiêu người con Phật trong quá khứ và hiện tại, cho đến ngày nay vẫn nguyên giá trị không hề thay đổi. Nếu được phép, cho tôi có lời nhắc nhở quý huynh đệ Tăng Ni sinh hãy cố gắng để thật sự trở thành pháp khí Đại thừa, không gì hơn là nỗ lực đoạn trừ hữu lậu ái nhiễm nói chung là Vô minh trụ địa - một trong Ngũ trụ địa. Ngoài ra, phải dung thông lý và sự, giải và hạnh tương ưng, học và hành nhất quán, được như thế thì cho dù ở đâu, sống hay chết cũng vẫn là pháp khí tối thượng của Đại thừa.